Chương 3. XÂY
DỰNG VÀ VÀ ĐỀ XUẤT LỰA CHỌN MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC Ở CÁC
TRƯỜNG PTDTNT TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH CÀ MAU TRONG BỐI CẢNH HIỆN NAY
3.1. Nguyên tắc đề xuất giải pháp
3.1.1. Đảm bảo tính mục tiêu
Đảm bảo tính mục đích, mục
tiêu của hoạt động giáo dục là nguyên tắc yêu cầu hoạt động giáo dục bắt buộc
phải có mục đích và phải được định hướng theo mục đích ấy trong suốt quá trình
hoạt động giáo dục diễn ra. Mục đích luôn là một yếu tố quan trọng đối với tất cả
các hoạt động, đặc biệt là đối với hoạt động giáo dục. Nó bảo đảm cho cả quá
trình hoạt động đi đúng hướng.
Nâng
cao hiệu quả giáo dục của hệ thống trường PTDTNT thực chất là đảm bảo thực hiện
mục tiêu đào tạo của nhà trường. Do vậy, các giải pháp đề xuất trước hết phải
hướng tới mục tiêu đào tạo, thực hiện được mục tiêu đào tạo và “sản phẩm” đào
tạo của trường PTDTNT phải đáp ứng được nhu cầu phát triển KT-XH của địa
phương.
Các giải pháp mà đề tài đề ra chính là những cách thức, phương hướng để giải
quyết các vấn đề còn hạn chế, khuyết điểm hay chưa phát huy tốt hiệu quả mà các trường PTDTNT còn
gặp phải, với mong muốn cải thiện, giảm thiểu những hạn chế
khuyết điểm đó, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Cà Mau trong bối
cảnh hiện nay.
Muốn giải quyết triệt để các vấn đề còn hạn chế, khuyết điểm, phát huy tốt hơn những ưu
điểm, thế mạnh đang có thì các giải pháp đưa ra phải dựa trên một số nguyên tắc nhất định làm nền tảng. Trong đó các giải pháp mà đề tài đưa ra phải đảm bảo
hướng vào thực hiện những mục đích, mục tiêu cụ thể mà đề tài hướng đến, đây là
nguyên tắc cơ bản đầu tiên cần phải thực hiện. Bởi nguyên tắc đảm bảo tính mục tiêu sẽ giúp định hướng cho giải pháp theo chiều hướng mà tác giả đã xác định
ngay từ ban đầu, tránh lạc hướng vào giải quyết các vấn đề không quan trọng.
3.1.2. Đảm bảo tính hệ thống
Giáo dục là một quá trình diễn ra lâu dài,
chất lượng hiệu quả của quá trình giáo dục nói chung, ở trường PTDTNT nói riêng
có liên quan, phục thuộc vào nhiều yếu tố. Do đó, việc giải quyết những khó
khăn, hạn chế trong thực trạng nhằm nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao hiệu
quả trong việc tổ chức thực hiện các hoạt động giáo dục ở trường PTDTNT hiện
nay cũng là vấn đề không thể đạt được trong một sớm, một chiều.
Nâng cao chất lượng giáo dục phổ thông trong
bối cảnh hiện nay gặp nhiều khó khăn, cần phải có nhiều giải pháp. Các giải
pháp có quan hệ mật thiết, hỗ trợ và thúc đẩy lẫn nhau, vì vậy việc đề xuất và
thực hiện các giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục ở trường PTDTNT trên địa
bàn tỉnh Cà Mau trong bối cảnh hiện nay đòi hỏi phải tiến hành một cách lâu
dài, các giải pháp mà đề tài đề xuất phải có hệ thống. Mỗi giải pháp đưa ra sẽ
có những ưu điểm, thế mạnh và những hạn chế riêng. Việc đề xuất những giải pháp
mang tính đồng bộ, hệ thống, để có thể áp dụng thực hiện hường xuyên, liên tục
sẽ góp phần hỗ trợ thức đẩy lẫn nhau.
3.1.3. Đảm bảo tính thực tiễn
Nâng cao chất lượng giáo dục đang là yêu cầu
cấp thiết trước những yêu cầu đòi hỏi bởi xu thế toàn cầu hóa và yêu cầu đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục hiện ở Việt Nam hiện nay. Giáo dục phổ thông
trong bối cảnh tình hình phát triển giáo dục trên thế giới và ở Việt Nam như
vậy có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình phát triển của quá trình dạy học trong
nhà trường phổ thông nói chung, các trường PTDTNT ở Cà Mau nói riêng.
Vì vậy, những giải pháp nâng cao chất lượng
giáo dục phải căn cứ trên những điều kiện thực tế về kinh tế - xã hội, khoa học
và công nghệ ở địa phương Cà Mau. Các giải pháp đưa ra phải phù hợp với tình
hình thực tế về chất lượng điều kiện cơ sở vật chất, quy mô trường lớp, đội ngũ
cán bộ quản lý và giáo viên trong các trường PTDTNT. Đối với các giải pháp của
đề tài phải được xây dựng và xuất phát trên cơ sở phân tích thực trạng chất
lượng giáo dục, từ những thuận lợi và khó khăn trong quá trình dạy học và giáo
dục của trường PTDTNT trong thời gian qua cũng như những định hướng và yêu cầu
phát triển, đổi mới giáo dục trong thời gian tới.
3.1.4. Đảm bảo tính khả thi
Nguyên tắc đảm bảo tính khả thi đỏi hỏi các
giải pháp đưa ra phải đảm bảo thực hiện được và đem lại những thay đổi nhất
định về hiệu quả giáo dục và đào tạo của trường PTDTNT.
Giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục bên
cạnh phải phù hợp với tình hình thực tiễn, thì yếu tố rất quan trọng cần phải
đảm bảo là tính khả thi của các giải pháp. Nguyên tắc này đòi hỏi các giải pháp
nâng cao chất lượng giáo dục phải phù hợp với đặc điểm tình hình học sinh, thực
tiễn công tác của cán bộ quản lý, công tác dạy học và giáo dục của người giáo
viên, đảm bảo để họ có thể thực hiện áp dụng được và áp dụng có hiệu quả những
biện pháp đã xây dựng.
Tính khả thi của giải pháp còn là khả năng
áp dụng được và phát huy hiệu quả khi áp dụng vào tình hình thực tiễn xã hội
của địa phương Cà Mau, khả thi khi áp dụng được và phát huy hiệu quả tại các
trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Cà Mau.
3.2. Giải
pháp nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường PTDTNT
trên địa bàn tỉnh Cà Mau trong bối cảnh
đổi mới giáo dục hiện nay
3.2.1. Nâng cao hiệu quả công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục ở
trường PTDTNT
3.2.1.1. Mục đích của giải pháp
Có thể nói, công tác
kiểm định chất lượng giáo dục và xây dựng trường chuẩn quốc gia luôn được xác
định là một khâu then chốt để nâng cao chất lượng của mỗi nhà trường, mở rộng
ra là chất lượng của toàn ngành giáo dục, củng như xây dựng nông thôn mới ở địa
phương. Thời gian qua, công tác tự đánh giá theo quy định tại Thông tư số 18/2018/TT-BGDĐT ngày 22/8/2018 của Bộ
trưởng Bộ GD&ĐT, đã được các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Cà
Mau, quan tâm và thực hiện, tuy nhiên vẫn còn lúng túng, nhiều hạn chế, bất
cập.
Giải pháp nâng cao
hiệu quả công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục ở trường PTDTNT trong giai
đoạn hiện nay, hướng đến những mục đích sau:
- Giúp các cơ sở
giáo dục phổ thông xác định việc đáp ứng mục tiêu giáo dục trong từng giai
đoạn; giúp lập kế hoạch cải tiến chất lượng, duy trì và nâng cao các hoạt động
của nhà trường; thông báo công khai với các cơ sở quản lý nhà nước và xã hội về
thực trạng chất lượng của nhà trường; để cơ quan quản lý nhà nước đánh giá, công nhận hoặc không công
nhận cơ sở giáo dục phổ thông đạt kiểm định chất
lượng giáo dục.
- Làm
tốt công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục trường phổ thông, giúp khuyến
khích đầu tư và huy động các nguồn lực cho giáo dục, góp phần tạo điều kiện đảm
bảo cho nhà trường không ngừng nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục; để cơ quan quản
lý nhà nước đánh giá, công nhận hoặc không công nhận cơ sở giáo dục phổ thông đạt chuẩn
quốc gia.
- Đẩy mạnh và phát
huy hiệu quả công tác tự đánh giá chất lượng
giáo dục trường phổ thông, giúp nâng cao nhận thức về công tác kiểm định
chất lượng giáo dục cho cán bộ, GV, nhân viên trong nhà trường.
3.2.1.2. Nội dung của giải pháp
- Tăng cường nhận thức cho cán bộ, GV, nhân viên về công
tác tự đánh giá và xây dựng, triển khai kịp thời kế hoạch tự đánh giá
chất lượng giáo dục của nhà trường.
- Phân công nhiệm vụ cụ thể rõ ràng, phù hợp với năng
lực của từng cá nhân, bộ phận, thực
hiện công tác tự đánh giá và chỉ đạo, kiểm tra thực hiện tốt công tác tự đánh
giá trong kiểm định chất lượng giáo dục.
- Thực hiện tốt công tác thu thập, xử lý và phân tích các thông tin, minh chứng dùng làm
căn cứ, minh hoạ cho các nhận định trong báo cáo tự đánh giá.
- Tăng cường các điều kiện hỗ
trợ cho công tác tự đánh giá.
3.2.1.3. Tổ chức thực hiện
Như
đã đề cập, công tác tự đánh giá đã được các trường PTDTNT quan tâm và thực hiện
tương đối tốt quy định về quy trình tự đánh giá của trường trung học, theo quy định. Tuy nhiên, việc triển
khai thực hiện công tác này của các trường vẫn còn lúng túng, nhiều hạn chế,
bất cập. Những hạn chế, bất cập này dẫn đến hiệu quả của công tác tự đánh giá
chưa cao, chưa thật sự đạt được mục tiêu kiểm định chất lượng giáo dục và chưa
đáp ứng yêu cầu giáo dục và đào tạo của nhà trường. Để góp phần nâng cao hiệu quả công tác tự đánh giá chất
lượng giáo dục ở trường PTDTNT, trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu và phân
tích, chúng tôi đề xuất một số biện pháp, cách thức thực hiện giải pháp này như
sau:
Thứ nhất. Đối với nội dung nâng cao nhận thức cho cán bộ, GV, nhân viên
về công tác tự đánh giá và kịp thời xây dựng, triển khai kịp thời kế hoạch tự
đánh giá chất lượng giáo dục của nhà trường.
Việc theo dõi, kiểm tra đánh giá trình độ
nhận thức của cán bộ quản lý và GV thuộc các tổ phụ trách công tác tự đánh giá
trong kiểm định chất lượng giáo dục, cũng như làm tốt công tác tuyên truyền
rộng rãi trong cán bộ, GV, nhân viên nhà trường về các vấn đề của KĐCL trong
giai đoạn hiện nay sẽ tạo sự thống nhất, đồng
thuận trong đội ngũ khi triển khai. Làm
tốt công tác này, Hiệu trưởng các trường PTDTNT sẽ nắm tổng thể các hoạt động
trong việc triển khai quy trình tự đánh giá và có sự phân công hợp lý,
phát huy hết sức mạnh của các thành viên trong Hội đồng tự đánh giá. Trong quá
trình thực hiện, cần lưu ý:
- Tổ chức thực hiện tốt
công tác tuyên truyền đến toàn thể hội đồng sư phạm nhà trường, phụ huynh và
HS. Tổ chức các lớp tập huấn, các hoạt động bồi dưỡng kiến thức về KĐCL, tổ
chức hội nghị, hội thảo. Tạo điều kiện cho cán bộ, GV giao lưu học hỏi công tác
tự đánh giá của các trường khác. Lãnh đạo các trường cần chỉ đạo tổng hợp
những thông tin dạng chuyên đề về KĐCL, công khai các nội dung, tiến độ và kết
quả tự đánh giá của nhà trường trên Website, bảng tin, Zalo...
- Tiến hành phân tích rõ điểm mạnh, điểm yếu
cũng như những cơ hội và thách thức (Mô hình SWOT), để có được các luận cứ khoa
học cho việc xây dựng kế hoạch. Qua đó xác lập các mục tiêu tổng quát để có thể
phân công nhiệm vụ sát với thực tế và đảm bảo hiệu quả cao khi thực
hiện. Tổ chức cho Hội đồng tự đánh giá thảo luận, góp ý đối với kế
hoạch đã xây dựng. Thông báo công khai kế hoạch tự đánh giá. Chuẩn bị các
điều kiện, về nguồn lực vật lực... lưu trữ, quản lý dữ liệu nhằm hỗ trợ tốt
nhất cho hoạt động tự đánh giá.
Thứ hai: Đối với nội dung công tác phân công, phân nhiệm
cụ thể, rõ ràng, phù hợp với năng lực của từng cá nhân, bộ phận, thực hiện công tác tự đánh giá và chỉ đạo,
kiểm tra thực hiện tốt công tác tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo
dục.
Các trường PTDTNT
cần thực hiện tốt những vấn đề sau:
- Lãnh đạo các trường PTDTNT mà cụ thể là
các Hiệu trưởng phải có sự phân công, phân nhiệm cụ thể rõ ràng, phù hợp với
năng lực của từng cá nhân, bộ phận, đảm bảo ràng buộc trách nhiệm, không chồng
chéo khi thực hiện hoạt động tự đánh giá. Lựa chọn những cán bộ, GV có
kinh nghiệm, năng lực phân tích, đánh giá các hoạt động của nhà trường.
- Tuyển chọn đội ngũ cán bộ chuyên trách
công tác tự đánh giá có phẩm chất và năng lực phù hợp yêu cầu từng công việc.
Từ đó xây dựng kế hoạch đào tạo bồi dưỡng, tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho đội
ngũ. Xây dựng quy chế phối hợp giữa các thành viên. Tạo điều kiện thuận lợi để
các thành viên có thời gian đầu tư cho lĩnh vực tự đánh giá, nội dung được phụ
trách.
- Để chỉ đạo thực
hiện tốt công tác tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo dục,
các trường cần ban
hành các quyết định quản lý đến toàn bộ quá trình tự đánh giá, huy động các
lực lượng tham gia và điều hành công tác tự đánh giá theo trật tự, kỷ cương đảm
bảo công tác tự đánh giá diễn ra theo
đúng kế hoạch đã xây dựng. Giải quyết
những khó khăn, vướng mắc phát sinh trong quá trình thực hiện công tác tự đánh
giá.
- Phải luôn theo dõi và giám sát công tác
này để chỉ đạo, ra quyết định một cách kịp thời, khoa học, đảm bảo tính hợp
lý, khả thi nhằm thực hiện tốt kế hoạch đã lập ra. Việc chỉ đạo phải được
thường xuyên, liên tục và nhất quán, phải phối hợp được các cá nhân, bộ phận;
Cần tổ chức các cuộc họp đánh giá về việc thực hiện công việc để rút kinh
nghiệm, điều chỉnh hoạt động.
- Phải xây dựng kế hoạch kiểm tra và thông báo rộng rãi,
công khai đến từng thành viên trong nhà trường. Hướng dẫn, yêu cầu từng cá
nhân, bộ phận tự kiểm tra việc thực hiện công việc của bản thân, bộ
phận. Kết hợp nhiều hình thức kiểm tra, sau đó tổ chức sơ kết, tổng kết,
đánh giá để có những điều chỉnh, bổ sung, khắc phục kịp thời.
Thứ ba: Thực hiện tốt công
tác thu thập, xử lý và phân tích các
thông tin, minh chứng dùng làm căn cứ, minh hoạ cho các nhận định trong
báo cáo tự đánh giá.
Minh chứng được
hiểu là những văn bản, hồ sơ, sổ sách, băng, đĩa hình, hiện vật đã và đang có
của nhà trường phù hợp với nội hàm của chỉ báo, tiêu chí. Minh chứng được sử dụng
để chứng minh cho các nhận định, kết luận
trong mục “Mô tả hiện trạng” từng tiêu chí của báo cáo tự đánh giá. Minh chứng được thu thập từ hồ sơ lưu trữ của nhà trường, các cơ quan có liên quan; kết quả khảo sát, điều tra,
phỏng vấn, quan sát các hoạt động của nhà trường. Minh chứng phải có nguồn gốc
rõ ràng và đảm bảo tính chính xác. Minh chứng thu được
không chỉ sử dụng cho mục đích đánh giá các mức đạt của từng chỉ báo, tiêu chí,
mà còn nhằm mô tả hiện trạng các hoạt động của nhà trường để người đọc hiểu
hơn, qua đó làm tăng tính thuyết phục của báo cáo tự đánh giá.
Để thực hiện tốt công tác thu thập, xử lý và phân tích các thông tin,
minh chứng cần lưu ý:
- Xác định rõ nội hàm, phân tích tiêu chí tìm minh chứng.
Để xác định đúng, đủ nội hàm (yêu cầu) của từng chỉ báo, tiêu chí cần lưu ý:
(1) Chỉ báo, tiêu chí thường có những từ, cụm
từ quan trọng có ý nghĩa như là “từ khóa”;
(2) Mỗi chỉ báo, tiêu chí
có một hoặc nhiều nội hàm;
(3) Cần xác định nội hàm của từng chỉ báo, tiêu chí theo các
quy định nào
của một chu kỳ kiểm định chất lượng giáo dục và thời hạn công nhận đạt chuẩn quốc
gia;
(4) Đối chiếu “Mục tiêu cụ thể” của nhà
trường liên quan nội hàm chỉ báo, tiêu chí.
Trên cơ sở đã xác định đúng, đủ nội hàm chỉ báo, tiêu chí, nhóm công tác
hoặc cá nhân sẽ phân tích tiêu chí để tìm những minh chứng cần
thu thập, nơi thu thập và ghi vào Phiếu
xác định nội hàm, phân tích tiêu chí tìm minh chứng tiêu chí.
Để đánh giá thực
trạng từng nội hàm của chỉ báo, tiêu chí, nhà trường có thể tự đặt ra và trả
lời (ứng với nội hàm) các câu hỏi như: Nhà trường có hay không lập kế hoạch
thực hiện yêu cầu? Nhà trường đã thực hiện, đã đạt được yêu cầu chưa? Yêu cầu
đã đạt được của nhà trường so với yêu cầu theo quy định chung như thế nào? So
với các trường khác cùng có điều kiện tương đồng (kinh tế - xã hội, văn hóa,…)
như thế nào? Nhà trường đã thực hiện “vượt trên” yêu cầu như thế nào? Nhà
trường rà soát, kiểm tra việc thực hiện yêu cầu như thế nào? Những bằng chứng
để khẳng định nhà trường có kế hoạch,
thực hiện yêu cầu, rà soát, kiểm tra việc thực hiện yêu cầu,...
Trả lời những câu hỏi trên, nhà trường đã phân tích được tiêu chí, định
hướng được việc thu thập minh chứng và chuẩn bị cho các bước tiếp theo của quy
trình tự đánh giá.
- Thu thập minh chứng.
Căn cứ vào các Phiếu
xác định nội hàm, phân tích tiêu chí tìm minh chứng tiêu chí, nhóm
công tác hoặc cá nhân được phân công tiến hành thu thập
minh chứng, sắp xếp minh chứng theo thứ tự nội hàm chỉ báo,
tiêu chí của tiêu chuẩn đánh giá cơ sở giáo dục phổ thông.
Trong trường hợp không tìm được minh chứng cho chỉ báo, tiêu chí nào đó
(hỏa hoạn, thiên tai hoặc những năm trước không lưu hồ sơ,...), Hội đồng tự đánh giá nêu rõ nguyên nhân trong Phiếu đánh giá tiêu chí.
- Xử lý và phân tích các
minh chứng.
Hội đồng tự đánh giá thảo luận các minh chứng cho từng
tiêu chí đã thu thập được của nhóm công tác hoặc cá nhân. Khi các minh chứng được sử dụng, Hội đồng tự
đánh giá lập Bảng danh mục mã minh chứng.
Trong thực tế,
có những minh chứng có thể được sử dụng ngay để làm minh chứng, nhưng có minh
chứng phải qua xử lý, phân tích, tổng hợp mới có thể sử dụng để làm minh chứng
cho các nhận định, kết luận trong mục “Mô tả hiện trạng”. Ví dụ, hầu hết minh
chứng thu được sau các kết quả
khảo sát, điều tra, phỏng vấn và quan sát các hoạt động của cơ
sở giáo dục phổ thông phải xử lý thành dạng số liệu tổng hợp mới có thể đưa vào làm minh chứng trong mục “Mô tả hiện trạng”.
Các minh chứng phù hợp với nội
hàm chỉ báo, tiêu chí sẽ được sử dụng trong
mục “Mô tả hiện trạng”
của Phiếu đánh giá tiêu chí. Các minh chứng này,
trước khi được sử dụng cần thiết phải mã hóa
với mục đích gọn, tiện tra cứu. Mã minh chứng có
thể được ký hiệu bằng chuỗi gồm 1 chữ cái (H), hai
dấu gạch (-) và các chữ số được quy ước:
[Hn-a.b-c]. Trong đó, H là hộp (cặp) đựng minh
chứng; n là số thứ tự của hộp (cặp) đựng minh chứng được đánh
số từ 1 đến hết (n có thể có 2 chữ số); a.b là ký hiệu của tiêu chí trong tiêu
chuẩn (Ví dụ: [H1-1.1-01] được hiểu là minh chứng thứ nhất của tiêu chí 1.1
thuộc tiêu chuẩn 1, được đặt ở hộp 1).
Đối với những minh chứng sử dụng ở Mức 4, đã được mã hóa
và sử dụng ở các tiêu chí thuộc Mức 1, Mức 2 hoặc Mức 3 thì chỉ cần trích dẫn
mã minh chứng (giữ nguyên cách mã hóa minh chứng đã sử dụng).
Trong trường hợp, nhà trường không để riêng các minh
chứng trong các hộp (cặp) mà vẫn để trong hồ sơ lưu trữ của
nhà trường, thì mã minh chứng sẽ được ký hiệu là [a.b-c]. Trường hợp này, phải
ghi rõ vị trí cụ thể (đường dẫn) của minh
chứng đặt trong hồ sơ lưu trữ của nhà trường vào Bảng danh
mục mã minh chứng.
- Sử dụng minh chứng.
Mỗi minh chứng chỉ được mã hóa một lần. Minh chứng được dùng cho nhiều tiêu
chí trong một tiêu chuẩn hoặc nhiều tiêu chuẩn thì mang mã minh chứng của tiêu
chí, tiêu chuẩn được sử dụng lần thứ nhất.
Mỗi nhận định, kết luận trong mục “Mô tả hiện trạng” của Phiếu
đánh giá tiêu chí (sau đó được sử dụng trong báo cáo tự đánh giá) phải có minh chứng kèm theo. Cần lựa chọn một,
hoặc vài minh chứng phù hợp với nội hàm của chỉ báo, tiêu chí và ghi ký hiệu đã
được mã hóa vào sau mỗi nhận định, kết luận. Trường hợp một nhận định, kết luận
trong mục “Mô tả hiện trạng” có
từ 2 minh chứng trở lên, thì mã minh chứng được đặt liền nhau, cách nhau dấu
chấm phẩy (;). Ví dụ: Một nhận định, kết luận của Tiêu chí 2.1 thuộc Tiêu chuẩn
2 có 3 minh chứng thứ nhất, thứ hai và thứ ba (đặt ở hộp số 3) được sử dụng thì
sau nhận định, kết luận đó, các minh chứng được viết là: [H3-2.1-01];
[H3-2.1-02]; [H3-2.1-03].
Mỗi minh chứng chỉ cần một bản (kể cả những minh chứng được dùng cho nhiều
chỉ báo, tiêu chí và tiêu chuẩn), không nhân thêm bản để tránh lãng phí.
- Lưu trữ và bảo quản.
Có thể tập hợp,
sắp xếp minh chứng trong các hộp (cặp) theo thứ tự mã hóa. Minh chứng hết giá
trị được thay thế bằng minh chứng đang còn hiệu lực và phù hợp. Minh chứng thay
thế được ghi ký hiệu của minh chứng bị thay thế
và ghi rõ ngày, tháng, năm thay thế. Lưu ý, những minh chứng phục vụ công tác
quản lý các hoạt động nhà trường thì lưu trữ, bảo quản tại hồ sơ lưu trữ của
nhà trường, nhưng phải ghi rõ vị trí cụ thể (đường dẫn) của minh chứng trong Bảng danh mục mã
minh chứng để tiện lợi trong việc tra cứu, tìm kiếm.
Đối với những
minh chứng phức tạp, cồng kềnh (các hiện vật; hệ thống hồ sơ, sổ sách; các văn
bản, tài liệu, tư liệu có số lượng lớn và số trang nhiều,…), nhà trường có thể
lập các biểu, bảng tổng hợp, thống kê các dữ liệu, số liệu để thuận tiện cho
việc sử dụng. Nếu có điều kiện thì chụp ảnh (kỹ thuật số) minh chứng, lưu trong
đĩa CD, USB hoặc lưu trong máy tính.
Minh chứng được
lưu trữ, bảo quản theo quy định của Luật lưu trữ và các quy định hiện hành.
Thứ tư: Tăng cường các điều kiện hỗ trợ cho công tác tự đánh giá.
Các điều kiện hỗ
trợ cho công tác tự đánh giá như đảm bảo cơ sở vật chất, điều kiện tài chính,
sự hỗ trợ của cộng đồng đối với công tác tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo dục củahà trường, có ý nghĩa quan trọng. Nó đảm bảo cho
kế hoạch tự đánh giá của nhà trường được thực hiện đúng tiến độ, phát huy tối
đa hiệu quả làm việc của các nhóm chuyên trách.
Để làm tốt công tác này các trường cần quan tâm:
- Đảm bảo nơi làm việc thường xuyên của tổ
thư ký và lưu trữ thông tin minh chứng.
- Trang bị tối thiểu các trang thiết bị: máy
vi tính, máy in, tủ đựng hồ sơ minh chứng…
- Cung cấp đầy đủ văn bản hướng dẫn về lĩnh
vực tự đánh giá và kiểm định chất lượng giáo dục cho Hội đồng tự đánh giá. Xây
dựng chế độ bồi dưỡng hợp lý nhằm động viên tinh thần làm việc của các thành
viên Hội đông tự đánh giá. Tranh thủ sự hỗ trợ tài chính từ các tổ chức, cá
nhân bên ngoài nhà trường để có thêm nguồn chi cho công tác tự đánh giá.
3.2.2. Tăng
cường hiệu lực, hiệu quả quản lý trường PTDTNT
3.2.2.1.
Mục đích của giải pháp
Công tác quản lý và nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý trường PTDTNT, là một khâu có ý nghĩa then chốt, là
yếu tố rất quan trọng nhằm đảm bảo sự thành công cho cả tiến trình đổi mới,
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo của mỗi nhà trường, mỗi cơ sở giáo dục.
3.2.2.2.
Nội dung của giải pháp
Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý trường trung học nói chung, trường PTDTNT, cần quan tâm thực hiện tốt
một số nội dung cơ bản sau:
- Đổi mới cơ bản về tư duy và
phương thức quản lý theo hướng nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong bối cảnh thực hiện Chương trình
giáo dục phổ thông 2018.
- Phát huy vai trò của Đảng bộ, chính quyền địa phương
trong định hướng, điều hành, phối hợp với nhà trường trong các hoạt động giáo
dục.
- Tăng cường ứng
dụng, xây dựng hệ thống thông tin quản lý về giáo dục.
- Phát huy hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm tra nội
bộ trường học, cũng như việc chấp hành chính sách, pháp luật về giáo dục, đào
tạo của cán bộ và GV trong đơn vị.
3.2.2.3. Tổ chức thực hiện
- Lãnh đạo trường PTDTNT cần
tiếp tục đổi mới cơ bản về tư duy và phương thức quản lý theo hướng nâng cao
hiệu lực, hiệu quả trong
bối cảnh Chương trình giáo dục phổ thông 2018 đang áp dụng.
Khi
áp dụng chương trình giáo dục phổ thông mới sẽ thể hiện rõ hơn vai trò của hiệu
trưởng, đó là tập trung vào lãnh đạo để phát triển nhà trường, quan tâm đến tầm
nhìn sứ mệnh, tạo giá trị, xây dựng và thực hiện các chương trình hành động
phát triển nhà trường, phải tự chủ và chịu trách nhiệm giải trình về các vấn đề
cơ bản. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện tại tính tự chủ của các trường phổ
thông công lập nói chung các trường PTDTNT nói riêng hiện nay là rất
thấp. Bởi vì trong mô hình công lập truyền thống thiên về hành chính, luôn
chấp hành, thực hiện triển khai các hướng dẫn, chỉ thị theo phân cấp quản lý
giáo dục.
Do
đó, các trường PTDTNT cần nhanh chóng tiếp cận và áp dụng mô hình tự chủ theo
hướng nhà trường chủ động để ra những định hướng phát triển phù hợp với điều
kiện cụ thể. Trong đó, các hiệu trưởng phải là người cán bộ quản lý năng động,
sáng tạo hơn, nhằm cải thiện không ngừng mối quan hệ với HS và phụ huynh, cải
thiện điều kiện cơ sở vật chất, chất lượng GV… Mục đích cuối cùng là đảm bảo
công bằng, hiệu quả và chất lượng giáo dục phổ thông.
- Phát huy hơn nữa vai trò của Đảng bộ, chính quyền địa
phương trong định hướng, điều hành, phối hợp với nhà trường trong các hoạt động
giáo dục. Mạnh dạn giao quyền tự chủ trong xây dựng và quản lý chương trình
giáo dục, kể cả việc tự chủ về tài chính (nếu có), cho các tổ, khối và GV. Cùng
với đó là tăng cường kiểm soát chất lượng, hiệu quả công tác quản lý, tổ chức
hoạt động giáo dục.
- Tăng cường ứng
dụng, xây dựng hệ thống thông tin quản lý về giáo dục. Phối hợp với các đơn vị
cung cấp phần mềm, chuyển giao công nghệ thiết kế các module, các phần mềm cần
thiết phục vụ công tác quản lý thông tin, hỗ trợ công tác quản lý và tổ chức
các hoạt động giáo dục, nhằm đáp ứng nhu cầu về dữ liệu và thông tin cho công
tác chỉ đạo quản lý. Thường xuyên bồi dưỡng, tập huấn cho đội ngũ cán bộ, GV về
ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý, giảng dạy.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác thanh tra, kiểm
tra nội bộ trường học, cũng như việc chấp hành chính sách, pháp luật về giáo
dục, đào tạo của cán bộ và GV trong đơn vị. Kịp thời phát hiện những mặt hạn
chế trong công tác quản lý và tổ chức hoạt động giáo dục, để có hướng khắc phục
hiệu quả. Hoạt động thanh tra, kiểm tra cần được tiến hành theo chương trình,
kế hoạch và thanh tra đột xuất khi phát hiện có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Khi
thanh tra, kiểm tra phải bảo đảm đánh giá được toàn diện công tác quản lý, tổ
chức hoạt động giáo dục của các trường. Việc thanh tra, kiểm tra, đánh giá phải
được triển khai một cách công khai, độc lập, tránh hình thức. Xử lý nghiêm các
trường hợp cán bộ quản lý, GV có biểu hiện vi phạm các quy định về hoạt động
chuyên môn, về pháp luật.
3.2.3. Bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho đội ngũ GV đáp ứng yêu cầu đổi
mới chương trình giáo dục phổ thông
3.2.3.1. Mục đích của giải pháp
Công
tác bồi dưỡng về tư tưởng, nhận thức và chuyên môn nghiệp vụ đối với đội ngũ
được nhà trường ưu tiên hàng đầu trong công tác chỉ đạo. Làm tốt công tác bồi
dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ, nhất là đội ngũ GV, sẽ quyết định mọi hoạt
động của nhà trường, đáp ứng những yêu cầu của đổi mới giáo dục và thực hiện thành
công chương trình giáo dục phổ thông mới.
3.2.3.2. Nội dung
của giải pháp
- Chú trọng bồi dưỡng
cho đội ngũ GV, để đảm bảo năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng nhiệm vụ hiện
nay và thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới.
-
Nâng cao năng lực giảng dạy, truyền thụ kiến thức cho HS.
- Triển khai mạnh mẽ công tác bồi dưỡng, đổi
mới phương pháp dạy học, đặc biệt là phương pháp giáo dục HS dân tộc.
3.2.3.3. Tổ chức
thực hiện
Công tác bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của GV là vấn
đề rất quan trọng, cần được quan tâm trong quản lý, chỉ đạo công tác giảng dạy
của các đơn vị trường học. Muốn củng cố uy tín của mình, nhà trường phải có đội
ngũ GV vững vàng, giàu năng lực. Công
tác bồi dưỡng năng lực chuyên môn cho đội ngũ GV ở các trường phổ thông nói chung, thường thông qua con
đường đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn. Thực tế cho thấy, đội ngũ GV các trường
PTDTNT ít được tập huấn, cập nhận kiến thức. Một bộ phận đội ngũ
GV còn hạn chế năng lực chuyên môn, thiếu động lực cầu tiến hoặc còn tư tưởng ỷ
lại không tự bồi dưỡng, nâng cao tay nghề. Đứng trước yêu cầu của việc thực hiện chương trình giáo
dục phổ thông mới, cần phát triển năng lực nghề nghiệp cho GV ở những nội dung
quan trọng sau:
Một là: Chú trọng bồi dưỡng
cho đội ngũ GV, để đảm bảo năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng nhiệm vụ hiện
nay và thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới trong những năm tới, như:
Năng lực xây dựng kế hoạch dạy học môn học; thiết kế bài học, bài kiểm tra đánh
giá sát đối tượng và theo định hướng phát triển phẩm chất năng lực của HS, đạt
chuẩn đầu ra theo yêu cầu; năng lực sử dụng thiết bị dạy học…
Hai là: Nâng cao năng lực giảng
dạy, truyền thụ kiến thức cho HS.
Đối với mỗi GV, quan
trọng nhất là năng lực giảng dạy, truyền thụ kiến thức. HS có nắm vững và vận
dụng được những kiến thức, các kỹ năng phổ thông hay không phụ thuộc trực tiếp
vào năng lực giảng dạy của GV. Do vậy, bản thân mỗi GV chắc chắn phải nắm vững
kiến thức, kỹ năng về môn học được phân công dạy; biết lập các loại kế hoạch
dạy học; biết sử dụng hiệu quả thiết bị dạy học; biết vận dụng các phương pháp,
hình thức tổ chức dạy học hợp lý theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo, phát triển kỹ năng cho HS.
Một trong những điểm
mới của các môn học trong chương trình giáo dục phổ thông tổng thể là việc tích
hợp liên môn để giúp HS giảm tải. Vì vậy khi thực hiện sách giáo khoa phổ thông
mới đòi hỏi GV phải có năng lực hiểu sâu và rộng mọi lĩnh vực, phải huy động
tối đa nguồn tri thức xã hội của bản thân, vận dụng vào trong bài giảng mới có
thể trở thành người “khai sáng” cho HS, đáp ứng yêu cầu của chương trình mới.
Để đào tạo, bồi
dưỡng nâng cao năng lực giảng dạy, truyền thụ
kiến thức cho HS đạt kết quả cao các trường PTDTNT cần lưu ý:
- Chủ động xây dựng
kế hoạch bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn được
lập một cách chi tiết, cụ thể về các nội dung. Tích cực tham mưu với Sở
GD&ĐT trong việc cử GV tham gia bồi dưỡng thường xuyên, định kì theo hình
thức tập trung, tại chức…; cần có chính sách hỗ trợ cho nhà giáo được đào tạo
nâng cao trình độ chuyên môn, học vấn, trình độ chính trị.
- Mỗi GV ngoài chương trình bồi dưỡng
chung, cần có kế hoạch tự bồi dưỡng nâng cao về chuyên môn nghiệp vụ. Trong quá trình dạy học thì việc tự bồi dưỡng là điều
kiện tốt nhất để nâng cao phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn và nghiệp vụ
tương xứng với vị trí việc làm, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Mỗi người GV
trong quá trình giảng dạy sẽ biết rõ nhất mình có những ưu thế gì, còn những
hạn chế gì; biết điểm mạnh và yếu của bản thân; biết chất lượng giảng dạy của
mình đến đâu từ đó sẽ có cách tự bồi dưỡng để hoàn thiện mình. Tự bồi dưỡng là
con đường tích lũy kiến thức, gọt sắc tư duy, là sự trăn trở, thử nghiệm để tìm
ra những hình thức, biện pháp thích hợp truyền đạt tri thức tới người học. Trong
bối cảnh bùng nổ công nghệ thông tin như hiện nay việc tự đào tạo, bồi dưỡng có
rất nhiều thuận lợi.
Do
vậy, các trường PTDTNT cần lưu ý đến những biện pháp khuyến khích, động viên,
tăng cường tuyên truyền vận động nhằm nêu cao tinh thần và hiệu quả của công
tác tự học, tự bồi dưỡng (tự đào tạo), để phát triển năng lực, trong bản thân
mỗi cán bộ, GV. Có rất nhiều tấm
gương về dạy giỏi; có rất nhiều cách làm hay, sáng tạo mà thầy cô ở nơi này,
nơi khác đã áp dụng và mang lại kết quả đáng ghi nhận; có những chương trình ý
nghĩa như “Thầy cô chúng ta đã thay đổi” để thầy cô có thể tham gia, có thể học
hỏi… để tự hoàn thiện mình.
Ba là: Triển khai mạnh mẽ công tác bồi dưỡng, đổi mới phương pháp dạy học, đặc
biệt là phương pháp giáo dục HS dân tộc.
Để
thực hiện tốt nhiệm vụ này, các trường PTDTNT cần quan tâm thực hiện tốt hơn
những vấn đề sau:
-
Việc xây dựng kế hoạch bồi dưỡng, đổi mới phương pháp dạy học cho đội ngũ GV
phải được thực hiện thường xuyên hoặc định kỳ trong từng năm học. Bám sát các
văn bản hướng dẫn về đổi mới dạy học để vận dụng hiệu quả vào thực tiễn đơn vị.
-
Yêu cầu mỗi một GV phải nắm bắt được cốt lõi của đổi mới phương pháp dạy học
như: Dạy học lấy HS làm trung tâm, phát huy được năng lực
vận dụng và phẩm chất của HS với việc: Đổi mới không gian lớp học; vận dụng
linh hoạt các hình thức dạy học; phát huy sự tự quản, tự tin, chủ động, mạnh
dạn của HS trong học tập, thảo luận, trao đổi, trình bày ý kiến; sử dụng hiệu
quả các kĩ thuật dạy học theo từng đơn vị kiến thức…
Để
thực hiện được các yêu cầu đó, các trường cần chỉ đạo các tổ chuyên môn triển
khai các chuyên đề dạy học theo hướng nghiên cứu bài học. Chỉ đạo GV áp dụng
thường xuyên nội dung của chuyên đề đó vào giảng dạy hàng ngày. Yêu cầu thực
hiện đồng bộ trong tất cả các bộ môn để HS quen dần với phương pháp học tập mới
từ đó giúp các em chủ động, mạnh dạn hơn trong học tập.
-
Chỉ đạo các tổ chuyên môn triển khai hiệu quả các chuyên đề dạy học sát với
điều kiện thực tiễn của đơn vị như: Phương
pháp dạy lớp ghép; giải pháp nâng cao chất lượng HS yếu; Tăng cường tiếng Việt
cho HS dân tộc; lựa chọn những hình thức phù hợp để giải nghĩa một số từ khó mà
HS chưa hiểu…; sử dụng linh hoạt các hình thức dạy học đối với HS dân tộc…. Sau
mỗi chuyên đề, trường cần tổ chức rút kinh nghiệm ngay để GV nắm bắt, vận dụng
hiệu quả hơn vào công tác giảng dạy của mình.
-
Tăng cường thêm các loại sách báo, tài liệu về đổi mới phương pháp dạy học, phổ
biến những văn bản, hình thức, kĩ thuật dạy học mới để GV tham khảo, nắm bắt,
áp dụng vào công việc. Mỗi buổi họp hội đồng, sinh hoạt chuyên môn, nhà trường
nên đưa ra một vấn đề về đổi mới dạy học để kiểm tra nhận thức của đội ngũ đồng
thời tạo môi trường thảo luận và đi đến thống nhất về phương pháp.
3.2.4. Đẩy mạnh công tác giáo dục HS có hoàn cảnh khó khăn, HS gặp khó khăn trong học tập, HS có
năng khiếu trong trường PTDTNT
3.2.4.1. Mục đích của giải pháp
Trong thực tế ở mỗi trường
phổ thông nói chung, các trường PTDTNT ở Cà Mau hiện nay, với số lượng HS khá đông, phần lớn các em ở nội trú với những
biểu hiện đa dạng về hoàn cảnh sống và khả năng nhận thức. Bên cạnh những HS học vừa học giỏi lại chăm chỉ (ngoan,
đạo đức tốt), HS có năng khiếu… là những HS giỏi, HS tiên tiến, nhưng chưa
ngoan (kiêu căng, ích kỷ), đây là những HS có khó khăn trong rèn luyện. Bên cạnh
đó, cũng có những em được coi là chăm ngoan nhưng học yếu kém (Đó là những em
có khó khăn trong học tập), và tất nhiên cũng có những em học yếu kém lại không
ngoan (có khó khăn, yếu kém cả trong học tập và rèn luyện). Những HS học yếu
kém thường hay vi phạm nội quy học tập, không có động cơ học tập mạnh mẽ, thiếu
trung thực trong học tập dẫn đến có những biểu hiện yếu kém về đạo đức. Những
HS yếu kém về đạo đức, đặc biệt là những HS sống thiếu ý chí, niềm tin thì hiếm
khi là HS khá, giỏi mà thường rơi vào những HS yếu, kém.
Mục tiêu của giáo dục phổ thông là giúp HS
phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ
bản, nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam XHCN, xây dựng tư cách và
trách nhiệm công dân, chuẩn bị cho HS tiếp tục học lên hoặc đi vào cuộc sống
lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do đó, nâng cao hiệu quả, chất
lượng giáo dục HS có hoàn cảnh khó
khăn, HS gặp khó khăn trong học tập, HS có năng khiếu trong trường PTDTNT, nhằm mục đích góp phần
giúp nâng cao chất lượng giáo dục
toàn diện cho HS, nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường đáp ứng
với yêu cầu của xã hội, góp phần “nâng cao dân trí - đào tạo nhân lực - bồi
dưỡng nhân tài” cho địa phương và đất nước.
3.2.4.2. Nội dung của giải
pháp
Có rất nhiều nguyên nhân từ
phía gia đình, xã hội và từ chính cả bản thân mỗi HS dẫn đến hiện tượng “khó
khăn trong học tập và rèn luyện đạo đức”. Để nâng cao chất lượng giáo dục toàn
diện, vấn đề quản lý, tăng cường giáo dục, giúp đỡ để những HS này có điều kiện
phát triển nhân cách tốt, hài hòa trong nhận thức và hành vi là hết sức cần
thiết, nhưng lại là vấn đề khá nan giải, phức tạp và hết sức nhạy cảm. Công
việc này đã và đang trở thành một thức thách lớn không chỉ riêng ngành giáo dục
mà là toàn xã hội. Tuy vậy, nhiệm vụ chính vẫn là của mỗi nhà trường, mỗi thầy
cô giáo, để thực hiện tốt nhiệm vụ này nhà trường, thầy cô giáo phải tận hiểu
các đối tượng HS cả về tâm sinh lý lẫn các biểu hiện trong cuộc sống. Từ đó tìm
giải pháp giáo dục phù hợp tích cực tác động một cách thường xuyên.
Đã qua, công tác giáo dục, bồi dưỡng HS có năng
khiếu, giúp đỡ HS có hoàn cảnh khó khăn, HS gặp khó khăn trong học tập và rèn luyện bằng các hình thức như: phân công GV dạy phụ đạo, đối
với HS yếu kém, HS gặp khó khăn trong học tập và rèn luyện ở các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Cà Mau đã
được quan tâm thực hiện. Công tác phối hợp với các
đoàn thể, chính quyền địa phương vận động xã hội hóa giáo dục, hỗ trợ giúp đỡ,
tạo điều kiện đối với những HS có năng khiếu, những HS nghèo, HS gặp khó khăn
trong học tập và rèn luyện cũng được các trường quan tâm thực hiện.
Tuy nhiên, theo là kết quả khảo sát thực trạng hiệu
quả thực hiện hoạt động giáo dục giúp đỡ đối với những đối tượng HS này mà các trường PTDTNT đã
thực hiện có một số hình thức chưa mang lại hiệu quả. Để
nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục
HS có hoàn cảnh khó khăn, HS gặp khó
khăn trong học tập, HS có năng khiếu, nhằm mục đích góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho HS, các trường PTDTNT có thể tiến hành qua nhiều hoạt
động, với những nội dung và hình thức khác nhau như:
- Phát huy vai trò chủ động của nhà trường trong việc phối
hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục, tham mưu với cấp uỷ, chính quyền địa
phương xây dựng một cơ chế phối hợp thống nhất, trong công tác giúp đỡ HS có
hoàn cảnh khó khăn, giáo dục HS gặp khó khăn trong học tập, rèn luyện.
- Quan tâm đầu tư, hỗ trợ và lên phương án, xây dựng kế
hoạch thực hiện thường xuyên đối với các hình thức hỗ trợ công tác
giáo dục HS có hoàn cảnh khó khăn, HS khó khăn trong học tập và rèn luyện đạo
đức.
- Chú trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao
trình độ GV về mọi mặt, đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy
tất cả các môn học trong chương trình quy định của từng lớp, từng cấp.
- Lựa chọn thời điểm thích hợp để tổ
chức hội thảo, báo cáo sáng kiến kinh nghiệm hoặc tọa đàm, giao lưu trao đổi
kinh nghiệm, tuyên
truyền phổ biến kiến thức về tâm sinh lý HS, về phương pháp giáo dục
HS, đến hội cha mẹ HS và
các tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn.
- Làm tốt công tác thi đua,
khen thưởng, những cá nhân, tập thể có thành tích cao trong công tác giáo dục
HS có khó khăn trong học tập và rèn luyện đạo đức.
3.2.4.3. Tổ chức thực hiện
Để góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng giáo dục HS có hoàn cảnh khó khăn, HS có năng khiếu trong thời gian tới, các trường PTDTNT cần
thực hiện tốt hơn một số biện pháp sau:
* Đối với công tác giúp đỡ HS có hoàn cảnh khó khăn, giáo dục HS gặp
khó khăn trong học tập, rèn luyện.
Một là: Lãnh đạo các trường PTDTNT cần
phát huy hơn nữa vai trò chủ động của
nhà trường trong việc phối hợp chặt chẽ với các lực lượng giáo dục, tham mưu
với cấp uỷ, chính quyền địa phương xây dựng một cơ chế phối hợp thống nhất,
trong công tác giúp đỡ HS có hoàn cảnh khó khăn, giáo dục HS gặp
khó khăn trong học tập, rèn luyện. Bằng những biện pháp như:
- Tổ chức các Hội
nghị chuyên đề về “Giáo dục HS có khó khăn trong học tập và rèn luyện đạo đức”
hàng năm, tạo cơ hội cho nhà trường, hội cha mẹ HS và các đoàn thể xã hội trên
địa bàn học tập chia sẽ kinh nghiệm, cách làm hay trong công tác này.
- Chú trọng công tác
xã hội hóa giáo dục, tổ chức ký cam kết, hợp đồng giữa nhà trường với các bậc
cha mẹ HS, với HS và đặc biệt là ký hợp đồng với các lực lượng công an ở địa
phương để xác định trách nhiệm của từng đối tác trong việc phát hiện, ngăn chặn
và giúp đỡ, giáo dục những HS có khó trong học tập và rèn luyện hoặc có những
biểu hiện sa sút về đạo đức (HS cá biệt).
- Cần tăng cường sự
quan tâm, chỉ đạo trong việc phân công các đơn vị, các bộ phận lập kế hoạch một
cách cụ thể, chặt chẽ hơn, tăng cường theo dõi, kiểm tra, đôn đốc và giúp đỡ
kịp thời khi gặp khó khăn vướng mắc.
Hai
là: Quan tâm đầu tư, hỗ
trợ và lên phương án, xây dựng kế hoạch thực hiện một cách thường xuyên hơn đối
với các hình thức hỗ trợ công tác giáo dục HS có hoàn cảnh khó khăn, HS khó
khăn trong học tập và rèn luyện đạo đức.
Với những hình thức như: Vận động gây quỹ giúp bạn nghèo chăm học (ở quy mô lớp hay cấp độ nhà
trường), để tổ chức trao học bổng, trao quà
nhân dịp lễ, tết…”; “Xây dựng tủ sách nghiệp vụ về giáo dục HS có khó khăn”, để
GV tham khảo giúp tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ năng lực, chuyên môn nghiệp
vụ. Các trường cũng cần thành lập hoặc củng cố “Tổ tư vấn tâm lý học đường”,
tạo điều kiện giúp HS có nơi bộc lộ, chia sẻ, sớm tháo gỡ những vướng mắc trong
cuộc sống và sinh hoạt.
Ba là: Chú trọng công tác bồi dưỡng, nâng cao trình độ GV về
mọi mặt, đảm bảo và không ngừng nâng cao chất lượng giảng dạy tất cả các môn
học trong chương trình quy định của từng lớp, từng cấp. Trong đó, nhấn mạnh đến
sự cần thiết và tầm quan trọng của việc bồi dưỡng ở GV kỹ năng tổ chức dạy học
“Khác biệt hóa” hay dạy học “Phân hóa”.
“Phân hóa” là một
hoạt động mà ở đó cần phải phân loại và chia tách các đối tượng, từ đó tổ
chức, vận dụng nội dung, phương pháp và hình thức sao cho phù hợp với đối tượng
ấy nhằm đạt hiệu quả cao. Dạy học phân hóa là
định hướng trong đó GV tổ chức dạy học tùy theo đối tượng, nhằm đảm bảo yêu cầu
giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm - sinh lý, nhịp độ, khả năng, nhu cầu và hứng
thú khác nhau của những người học. Trên cơ sở đó, GV có thể phát triển tối đa
tiềm năng vốn có của mỗi HS. Dạy học phân
hóa là chiến lược dạy học dựa trên nhận thức GV về nhu cầu, hứng thú và cách
thức học của từng cá nhân người học, khác với dạy học đại trà nội dung và cách
dạy chủ trương áp dụng cho số đông.
“Khác biệt hóa” trong giáo
dục không phải là cá nhân hóa kiểu một thầy một trò, thầy kèm riêng cho từng cá
nhân, được tổ chức giống nhau mọi nơi và với tất cả các loại hình kiến thức.
Khác biệt hóa là một hình thức tổ chức giảng dạy dựa trên sự duy biệt và nhu
cầu của từng HS. Nó phải linh động để có thể thích ứng với từng HS, từng nội
dung giáo dục và hoàn cảnh của từng địa phương và trường học. Có những HS cần
sự kèm cặp đặc biệt (những HS gặp khó khăn trong học tập, những HS có các vấn
đề về tâm thể lý cần được kèm cặp riêng bởi các GV được đào tạo đặc biệt…),
nhưng cũng có những HS không cần GV kèm riêng, thậm chí không cần GV giảng bài
theo kiểu truyền thống mới có thể hiểu bài, mà chỉ cần GV hướng dẫn thì cũng có
thể tự học, tự tìm tòi kiến thức.
Bốn
là: Lựa chọn thời điểm
thích hợp để tổ chức hội thảo, báo cáo sáng kiến kinh nghiệm hoặc
tọa đàm, giao lưu trao đổi kinh nghiệm, tuyên truyền phổ biến kiến
thức về tâm sinh lý lứa tuổi HS, về phương pháp giáo dục
HS (đặc biệt là những HS có khó trong học tập
và rèn luyện hoặc có những biểu hiện sa sút về đạo đức), đến hội cha mẹ HS và
các tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn.
Năm là:
Làm tốt công tác thi đua, khen thưởng, động viên kịp thời những cá nhân, tập
thể có thành tích cao trong công tác giáo dục HS có khó khăn trong học tập và
rèn luyện đạo đức.
* Đối với công tác giúp đỡ, tạo điều
kiện để HS có năng khiếu, HS giỏi phát huy những phẩm chất năng lực và tài năng
của mình.
Một trong những
biện pháp nâng cao hiệu quả trong công tác giáo dục, bồi dưỡng tạo điều kiện để HS có năng khiếu, HS giỏi phát huy
những phẩm chất năng lực và tài năng của mình, mà các trường PTDTNT nên áp dụng
và khai thác hiệu quả hơn đó là mô hình “Bồi dưỡng mũi nhọn, góp phần
tạo phong trào thi đua, học tập tốt trong nhà trường”.
Đối tượng tuyển sinh của các trường PTDTNT
trên địa bàn tỉnh Cà Mau chủ yếu là con em của đồng bào dân tộc thiểu số người
Khmer, sinh sống ở các địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn của tỉnh
nên trình độ nhận thức của HS không đồng đều, còn nhiều hạn chế, do đó, việc
phát hiện, bồi dưỡng HS giỏi là vấn đề khó khăn. Tuy nhiên, để làm tốt công tác
bồi dưỡng HS có năng khiếu, HS
giỏi và áp dụng có hiệu quả mô hình “Bồi dưỡng mũi nhọn”, các trường cần lưu ý và làm tốt những
nhiệm vụ cụ thể sau:
Thứ nhất: Lãnh đạo, Ban giám hiệu các trường cần chủ động hơn
trong chỉ đạo công tác xây dựng kế hoạch bồi dưỡng HS tham gia đội tuyển HS
giỏi các cấp. Quan
tâm đầu tư vào mũi nhọn HS giỏi, HS năng khiếu ở một số bộ môn là thế
mạnh của HS. Tổ chức, khuyến khích HS có khả năng tham gia các môn thực hành
như vận dụng kiến thức liên môn nhằm tạo phong trào thi đua học tập trong tập
thể HS nhà trường.
Cần chú trọng công
tác bồi dưỡng đội ngũ GV, lựa chọn GV có trình độ chuyên môn vững vàng, có kinh
nghiệm, tâm huyết với nghề, có tinh thần trách nhiệm cao để phụ trách bồi dưỡng
HS giỏi. Trong quá trình bồi dưỡng GV phải vừa
động viên HS cố gắng học tập vừa ôn lại cho HS kiến thức cơ bản, cung cấp kiến
thức nâng cao của bộ môn, tập cho các em làm quen với các dạng đề kiểm tra.
Thực hiện tốt công
tác khen thưởng, kịp thời động viên GV và HS có thành tích cao. Hỗ trợ, động
viên về vật chất và tinh thần, tạo điều kiện học tập tốt nhất cho HS tham gia
đội tuyển.
Thứ hai:
Tăng cường công tác giáo dục bản sắc văn hóa dân tộc, bồi dưỡng, phát triển
năng khiếu cho HS dân tộc thiểu số với các biện pháp như:
- Gắn vai trò, trách
nhiệm của GV chủ nhiệm với việc tuyên truyền giáo dục, nhắc nhở HS trong các
giờ sinh hoạt lớp, sinh hoạt chiều, tối ở khu nội trú …phải biết trân quý những
bản sắc của dân tộc mình, như thường xuyên sử dụng tiếng mẹ đẻ, trang phục
truyền thống, tìm hiểu các phong tục tập quán lâu đời, những ngày lễ hội của
dân tộc mình.
- GV chủ nhiệm cần
thành lập Câu lạc bộ hay đội văn nghệ của lớp chủ nhiệm và dựa vào kế hoạch năm
học của nhà trường, các chủ điểm hoạt động của Đoàn thanh niên, để lựa chọn
thời điểm, chủ điểm phù hợp, tổ chức luyện tập các tiết mục văn hóa văn nghệ,
trò chơi dân gian, tạo điều kiện để những HS có năng khiếu được tham gia và
tham gia có hiệu quả các phong trào, hội thi do nhà trường, hay do các tổ chức
đoàn thể xã hội tổ chức.
3.2.5. Tăng cường công tác giáo dục trải nghiệm, hướng nghiệp trong trường PTDTNT
3.2.5.1. Mục đích của giải pháp
Trong chương trình Giáo dục phổ thông mới,
hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp là hoạt động giáo dục bắt buộc (với Tiểu
học là hoạt động trải nghiệm còn với THCS, THPT là hoạt động trải nghiệm, hướng
nghiệp), không phải là một môn học nhưng nó lại vô cùng cần thiết đối với HS
đặc biệt là HS trung học phổ thông, bởi vì chính các hoạt động trải nghiệm,
hướng nghiệp trong chương trình giáo dục phổ thông mới các yêu cầu của chương
trình rất cụ thể với từng khối lớp với 4 nội dung: Hoạt động hướng vào bản
thân; Hoạt động hướng đến xã hội; Hoạt động hướng đến tự nhiên và Hoạt động
hướng nghiệp.
Hiện nay, hoạt động trải nghiệm, hướng
nghiệp dựa trên mục tiêu của chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, dó đó
việc đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả, chất lượng đối với công tác giáo dục trải
nghiệm, hướng nghiệp trong
trường PTDTNT, nhằm hướng đến mục tiêu giúp cho HS việc hình thành và
phát triển ở HS các năng lực thích ứng cuộc sống; năng lực thiết kế và tổ chức
hoạt động, năng lực định hướng nghề nghiệp; đồng thời góp phần hình thành, phát
triển các phẩm chất chủ yếu và năng lực chung quy định trong Chương trình tổng
thể đó là đóng góp vào hoạt động bồi dưỡng 5 phẩm chất HS: Yêu nước, Nhân ái,
Chăm chỉ, Trung thực, Trách nhiệm và các năng lực chung của HS là Năng lực tự
học và tự chủ, Năng lực giao tiếp và hợp tác, Năng lực giải quyết vấn đề và
sáng tạo.
3.2.5.2. Nội dung của giải pháp
Xuất phát từ mục tiêu chung của hoạt động
trải nghiệm và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp là hình thành, phát triển ở
HS năng lực thích ứng với cuộc sống, năng lực thiết kế và tổ chức hoạt động,
năng lực định hướng nghề nghiệp; đồng thời góp phần hình thành, phát triển các
phẩm chất chủ yếu và năng lực chung quy định trong Chương trình tổng thể. Hoạt
động trải nghiệm và Hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp giúp HS khám phá bản thân
và thế giới xung quanh, phát triển đời sống tâm hồn phong phú, biết rung cảm
trước cái đẹp của thiên nhiên và tình người, có quan niệm sống và ứng xử đúng
đắn, đồng thời bồi dưỡng cho HS tình yêu đối với quê hương, đất nước, ý thức về
cội nguồn và bản sắc của dân tộc để góp phần giữ gìn, phát triển các giá trị
tốt đẹp của con người Việt Nam trong một thế giới hội nhập.
Đã qua, việc tổ chức cho HS tham gia các hoạt động học tập trải nghiệm, tư vấn hướng nghiệp trong các trường
PTDTNT, đã được quan tâm thực hiện thường xuyên thông qua các hình thức khác
nhau như: Trong các buổi, tiết sinh hoạt chào cờ đầu tuần dưới sân trường, các
buổi sinh hoạt lớp chủ nhiệm… Bên cạnh đó, là một số hình thức chưa được quan tâm
thực hiện như: Học tập trải nghiệm,
tư vấn hướng nghiệp qua hoạt động sinh hoạt chuyên đề; sinh hoạt câu lạc bộ, nhóm sở thích; các hội thi, hội thảo; Học tập trải nghiệm, tư vấn hướng nghiệp qua
hoạt động tham quan, thực tế tại các cơ sở giáo dục
cao đẳng, đại học; Hoạt động tham quan nơi
lao động sản xuất; Hoạt động tình
nguyện nhân đạo…
Theo kết quả khảo sát thực trạng đối với
công tác giáo dục trải nghiệm, hướng nghiệp trong trường PTDTNT, trên địa bàn tỉnh Cà
Mau hiện nay là chưa đồng đều về mức độ thực hiện và kết quả, hiệu quả
đạt được giữa các nội dung, hình thức, phương pháp tổ chức thực hiện.
Để thực hiện giải pháp: Nâng cao hiệu quả,
chất lượng đối với công tác giáo
dục trải nghiệm, hướng nghiệp trong trường PTDTNT, cần lưu ý tới những nội
dung cơ bản sau:
- Đổi mới và tăng cường công tác tuyên
truyền nhằm nâng cao nhận thức của PHHS, HS, các thành viên trong nhà trường và
toàn xã hội về ý nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp
cho HS phổ thông;
- Đẩy mạnh công tác phân luồng và định hướng
nghề nghiệp và chú
trọng công tác giáo dục Lao động - Hướng nghiệp cho HS;
- Phát huy vai trò của tổ chức Đoàn thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh trong việc tổ chức và phối hợp tổ chức các hoạt động
trải nghiệm, hướng nghiệp cho HS.
3.2.5.3. Tổ chức thực hiện
Để góp phần nâng cao hiệu quả, chất lượng đối với công tác giáo dục trải
nghiệm, hướng nghiệp cho HS, các
trường PTDTNT cần thực hiện tốt hơn một số biện pháp sau:
Thứ
nhất: Đối với việc đổi
mới và tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục giúp nâng cao nhận thức về ý
nghĩa, tầm quan trọng của hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp cho HS phổ thông,
các trường PTDTNT cần lưu ý thực hiện tốt một số công việc sau:
- Thành lập “Tổ tư vấn hướng nghiệp”, chịu
trách nhiệm xây dựng kế hoạch hàng năm, triển khai thực hiện kế hoạch giáo dục
hướng nghiệp và định hướng phân luồng HS phù hợp với điều kiện thực tế nhà
trường và địa phương, đảm bảo hoàn thành các chỉ tiêu và nhiệm vụ kế hoạch đề
ra; trực tiếp triển khai các nội dung về chuyên môn nghiệp vụ theo chỉ đạo,
hướng dẫn của Sở GD&ÐT.
- Cần đẩy mạnh và tăng cường phối hợp tổ
chức các hoạt động tuyên truyền về giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân
luồng cho HS phổ thông như: Ngày hội tư vấn, hướng nghiệp; thi tìm hiểu về thế
giới nghề nghiệp; các hoạt động giao lưu của HS, GV, cán bộ quản lý với các nhà
khoa học, nhà quản lý, doanh nhân, doanh nghiệp.
- Tiến hành xây dựng các chuyên mục liên
quan đến nhiệm vụ giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng HS trên trang
thông tin điện tử nhà trường.
- Phân công, giao trách nhiệm cụ thể tới Phó
hiệu trưởng, GV chủ nhiệm, GV bộ môn, Đoàn thanh niên, hội phụ huynh,… trong
việc phối hợp để thực hiện công tác giáo
dục trải nghiệm, hướng nghiệp cho HS.
Thứ
hai: Trong việc đẩy mạnh
công tác phân luồng và định hướng nghề nghiệp và chú trọng công tác giáo dục Lao động - Hướng nghiệp
cho HS, cần lưu ý:
- Tăng cường chỉ đạo Ðoàn Thanh niên, các tổ
chuyên môn tích cực đổi mới nội dung, hình thức giáo dục hướng nghiệp thông qua
các môn học và hoạt động giáo dục trong nhà trường. Ða dạng, vận dụng linh hoạt
các hình thức tư vấn hướng nghiệp phù hợp với lứa tuổi HS và đặc thù địa
phương…
- Phát triển đội ngũ GV kiêm nhiệm làm nhiệm
vụ tư vấn, hướng nghiệp trong nhà trường, cử GV làm công tác giáo dục hướng
nghiệp tham gia các lớp bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng tư vấn, phương pháp tư
vấn hiện đại;
- Rà soát, bổ sung cơ sở vật chất, thiết bị
dạy học phục vụ giáo dục hướng nghiệp, dạy nghề, giáo dục STEM.
Thứ
ba: Phát huy vai trò
của tổ chức Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Chi đoàn GV, trong việc tổ
chức và phối hợp tổ chức các hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp cho HS.
- Công tác phối hợp trong việc tổ chức các
hoạt động đồng hành với thanh niên trong nghề nghiệp và việc làm cần chặt chẽ
và diễn ra trong suốt cấp học, tập trung vào năm học cuối cấp.
- Hằng năm, Ðoàn trường, phối hợp tích cực
với Tổ tư vấn hướng nghiệp, tiến hành tổ chức tư vấn hướng nghiệp cho HS cuối
cấp trong vấn đề chọn trường, chọn ngành nghề với sự phối hợp giúp đỡ của các
trường cao đẳng, đại học có uy tín trên địa bàn và trong khu vực. Phối hợp với
các cựu HS đang là sinh viên các trường đại học, cao đẳng để tư vấn về vấn đề
chọn trường, khoa, ngành học và phương pháp làm bài để đạt kết quả tốt.
- Khuyến khích, các tổ chức Đoàn thành lập
mô hình các câu lạc bộ học thuật, câu lạc bộ sở thích, qua đó giúp HS phát huy
năng khiếu và đam mê của mình. Giúp HS có cơ hội khám phá và phát triển năng
lực bản thân, được tìm hiểu những giá trị văn hóa, lịch sử, những nét đẹp của
quê hương, đất nước, con người, qua đó các em được bồi đắp lối sống có trách
nhiệm, được rèn luyện các năng lực, phẩm chất tiềm ẩn.
3.2.6. Phát huy
hiệu quả và nâng cao chất lượng đối với công tác giáo
dục hình thành, phát triển các kỹ năng sống cho HS trong trường PTDTNT
3.2.6.1. Mục đích của giải pháp
Rèn luyện cho HS có những kỹ năng sống cần thiết, đặc biệt là kỹ năng
hoạt động tự lập của HS trường phổ thông nói chung, HS trường PTDTNT nói riêng là vấn đề rất cần được các trường quan tâm.
Đối tượng HS của các trường PTDTNT trên địa bàn tỉnh Cà Mau đa số là người dân
tộc Khmer, chất lượng đầu vào thấp, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức
chậm, khả năng tự lập trong cuộc sống hằng ngày của các em còn hạn chế.
Việc nghiên cứu, tìm hiểu để đề xuất những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng đối với công tác giáo dục hình
thành, phát triển các kỹ năng sống cho HS trong trường PTDTNT, một cách hợp lý, thiết thực sẽ giúp các em không
lãng phí thời gian vào công việc vô ích, giúp các em biết kỹ năng tự lập, tự
quản lý thời gian, tự quản lý việc học của bản thân và các hoạt động khác có
liên quan tới cuộc sống cá nhân, góp
phần xây dựng nề nếp học tập, sinh hoạt và nâng cao chất lượng, hiệu quả dạy và
học.
3.2.6.2. Nội dung của giải pháp
Việc cung cấp những kiến thức về kỹ năng sống, giáo dục hình thành,
phát triển kỹ năng sống cho HS tại các trường PTDTNT hiện nay, được chủ yếu
thực hiện trong các buổi, tiết
sinh hoạt chào cờ đầu tuần dưới sân trường, các buổi sinh hoạt lớp chủ nhiệm và
tích hợp thông qua hoạt động
dạy học các môn học, bài học chính
khóa.
Một số hình thức giáo dục kỹ năng sống khác
như: Thông qua sinh hoạt câu lạc bộ, nhóm sở thích; các hội thi, cắm trại, trò chơi, sân khấu hóa… do Đoàn, Đội tổ
chức. Các buổi tọa đàm, trao đổi với chuyên gia (những người được đào tạo và có am
hiểu về kỹ năng sống, đăc điểm tâm lí lứa tuổi HS); trao đổi, trò chuyện phối
hợp với cha mẹ, người thân của HS... những hình thức này rất ít khi thực hiện (mặc
dù những hình thức này được Bộ GD&ĐT hướng dẫn chỉ đạo thực hiện) [9]. Việc không sử dụng hoặc không thường xuyên sử dụng những hình thức này
trong giáo dục kỹ năng sống cho HS là một trong những thiếu sót ảnh hưởng rất
lớn đến hiệu quả của công tác giáo dục kỹ năng sống cho HS.
Để thực hiện giải pháp: Nâng cao hiệu quả,
chất lượng đối với công tác giáo
dục hình thành, phát triển các kỹ năng
sống cho HS trong trường PTDTNT,
cần lưu ý tới những nội dung cơ bản sau:
Một là: Phát huy vai trò của Tổ tư vấn, hỗ trợ tâm lí trong trường nội trú, nhằm
nâng cao nhận thức, bồi dưỡng kỹ năng để rèn kỹ năng sống một cách đầy đủ và sâu rộng.
Hai là: Đổi mới cách thức giáo dục kỹ năng sống cho HS nội trú trong giờ sinh hoạt
lớp chủ nhiệm và các tiết sinh hoạt dưới cờ.
Ba là: Tăng cường chỉ đạo phối hợp giữa GV chủ nhiệm lớp với cha mẹ
HS, Ban đại diện cha mẹ HS của lớp.
Bốn là: Tạo điều kiện hơn về phương tiện cho giáo dục kĩ năng sống, tăng cường sự
phối hợp giữa các lực lượng giáo dục để đa dạng của các hình thức tổ chức rèn kĩ năng hoạt động tự lập cho HS nội trú.
Năm là: Phát huy vai trò của Ban quản lý khu nội trú và công tác kiểm tra, đánh
giá và thi đua, khen thưởng kịp thời đối với hoạt động giáo dục kỹ năng sống
cho HS.
3.2.6.3. Cách thức thực hiện giải pháp
* Thứ nhất: Phát huy tốt vai trò của Tổ tư vấn, hỗ trợ
tâm lí trong trường nội trú, nhằm nâng cao nhận thức, bồi dưỡng kỹ năng để rèn kỹ năng sống một cách đầy đủ và sâu rộng.
Để thực hiện tốt
nội dung này, các trường cần lưu ý thực hiện một số biện pháp cụ thể sau:
- Tổ tư vấn, hỗ
trợ tâm lí cần tham mưu tích cực với Ban Giám hiệu nhà trường trong việc phối
hợp với các chuyên gia, trung tâm tư vấn tâm lí, cơ sở y tế,... để trị liệu tâm
lí, xử lý kịp thời các trường hợp HS cần can thiệp chuyên sâu. Phối hợp với các
cơ quan, tổ chức về khoa học tâm lí giáo dục, các trường sư phạm đủ điều kiện,
các chuyên gia, nhà khoa học nhằm bồi dưỡng cho đội ngũ GV, cán bộ tư vấn tâm
lí về kiến thức, kỹ năng, thái độ đúng đắn, cần thiết để thực hiện công tác tư
vấn, tham vấn tâm lí, cũng như bồi dưỡng kỹ năng cho GV thực hiện công tác giáo
dục kỹ năng sống trong nhà trường.
- Tổ tư vấn, hỗ
trợ tâm lí trong trường nội trú cần xây dựng một bảng tin về giáo dục kỹ năng
sống, đặc biệt là kĩ năng hoạt động tự
lập. Nội dung được thay mới hàng tuần, với những bài viết hay về tầm quan
trọng của các kĩ năng hoạt động tự
lập đối với HS nội trú, các kĩ năng hoạt động tự
lập mà HS cần rèn luyện, cách thức tự rèn luyện… Hình thức bảng tin cần sáng
tạo và nhiều màu sắc, phù hợp với đặc điểm tâm lí của HS. Người phụ trách có
thể là chuyên viên tham vấn tâm lí, Phó Hiệu trưởng chuyên môn, Tổng phụ trách
Đội Thiếu niên, Bí thư Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh hay một người khác
có chuyên môn.
- Tổ tư vấn hỗ trợ tâm lí, cùng với Ban Giám hiệu nhà trường làm việc với
Ban đại diện cha mẹ HS, trao đổi về tầm quan trọng của các kỹ năng sống, các kĩ năng hoạt động tự lập đối với con em họ. Từ
đó, phối hợp cùng Ban đại diện cha mẹ HS tuyên truyền đến từng phụ huynh. Cùng
với đó, cũng cần lưu ý thêm với các GV chủ nhiệm đưa nội dung giáo dục kĩ năng sống vào các cuộc họp phụ huynh HS định kì.
Nếu nhà trường có điều kiện thì có thể mời chuyên gia giáo dục kỹ năng sống báo
cáo một vài chuyên đề cho phụ huynh HS với nội dung: “Giáo dục kỹ năng sống và
vai trò của cha mẹ”.
* Thứ hai: Đổi
mới cách thức giáo dục kỹ năng sống cho HS nội trú trong giờ sinh hoạt lớp chủ
nhiệm và các tiết sinh hoạt dưới cờ.
- Để giáo dục kỹ năng sống cho HS thông qua công tác chủ nhiệm lớp nói chung, ở mỗi giờ
sinh hoạt lớp chủ nhiệm nói riêng, mỗi người GV chủ nhiệm cần lưu ý:
+ Vấn đề giáo dục kĩ năng sống nói chung,
rèn kĩ năng hoạt động tự lập cho HS nội trú nói riêng còn cần đến vốn sống,
tình thương và nhân cách của người thầy. Học kiến thức ở thầy trước hết là ở
tấm gương sống của thầy. Vì vậy, để giáo dục kĩ năng sống cho HS HS trước hết “Mỗi
thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức, tự học và sáng tạo” mà ngành Giáo
dục đã phát động.
+ Thực hiện việc lồng ghép chương trình
giáo dục kỹ năng sống, trong những buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ, đây là giải
pháp quan trọng, là việc làm bổ ích, tránh được những buổi sinh hoạt nhàm
chán, lặp đi, lặp lại, mà lại không gây được hứng thú cho HS trong những
buổi sinh hoạt. Trong buổi sinh hoạt 15 phút đầu giờ thời gian ít, vì thế, GV
chủ nhiệm có thể áp dụng các phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho HS như: thảo luận
nhóm, động não, nghiên cứu tình huống.
- Để phát huy hiệu
quả của tiết sinh hoạt chào cờ đầu tuần góp phần giáo dục, rèn luyện kỹ năng
sống cho HS nội trú. Buổi sinh hoạt chào cờ đầu tuần cần được tiến hành với quy
trình thực hiện theo hướng đổi mới, trong đó cần lưu ý những vấn đề sau:
+ Xây dựng các
bước thực hiện chương trình buổi sinh hoạt dưới cờ một cách cụ thể, khoa học.
+ Xác định các
chủ đề giáo dục kỹ năng sống, những kỹ năng cụ thể nào cần hình thành ở HS, để
lồng ghép trong phần “Sinh hoạt chủ điểm” ở mỗi buổi sinh hoạt dưới cờ.
* Thứ ba: Tăng cường chỉ đạo phối hợp giữa GV
chủ nhiệm lớp với cha mẹ HS, Ban đại diện cha mẹ HS của lớp.
Kết quả giáo dục
HS của lớp chủ nhiệm không chỉ phụ thuộc vào sự thống nhất tác động sư phạm của
các lực lượng trong nhà trường mà còn phụ thuộc vào sự thống nhất tác động giáo
dục của các lực lượng ngoài nhà trường trước hết là gia đình. Vì vậy, nhà
trường cần chỉ đạo sự phối hợp giữa GV chủ nhiệm với cha mẹ HS. Tạo điều kiện cho GV
chủ nhiệm liên kết với gia đình HS bằng nhiều cách khác nhau như:
- Tổ chức hội
nghị cha mẹ HS, bầu ban đại diện cha mẹ HS, lựa chọn những người nhiệt tình, có
thời gian, có uy tín trong cộng đồng dân cư để họ có điều kiện quan tâm, giúp
đỡ nhà trường về vật chất, tinh thần vào ban đại diện cha mẹ HS của lớp.
- Xây dựng kế
hoạch định kỳ cho GV chủ nhiệm thông báo cho gia đình HS biết kết quả học tập,
lao động, tu dưỡng... Đồng thời yêu cầu gia đình thông báo kịp thời với GV chủ
nhiệm về tình hình học tập, sinh hoạt, diễn biến tư tưởng, hành vi của con em
mình ở gia đình, cộng đồng dân cư... để từ đó phối hợp giáo dục.
- Giữ mối liên hệ với gia
đình HS, đối với những HS có khó khăn trong học tập và rèn luyện, GV chủ nhiệm
cần thường xuyên liên hệ với gia đình HS bằng những hình thức khác nhau như:
Điện thoại, sổ liên lạc…
* Thứ tư: Tạo
điều kiện tăng cường các phương tiện cho giáo dục kĩ năng sống, tăng cường sự
phối hợp giữa các lực lượng giáo dục để đa dạng của các hình thức tổ chức rèn kĩ năng sống cho HS nội trú.
Để thực hiện tốt nội dung này, cần lưu ý:
- Mỗi nhà trường
cần sắp xếp bố trí một phòng riêng để thực hiện các nội dung giáo dục kỹ năng
sống với một số trang thiết bị cần thiết.
- Có chính sách
hỗ trợ kinh phí cho GV, báo cáo viên thực hiện giáo dục kỹ năng sống.
- Tuyển dụng
chuyên viên tham vấn học đường để hỗ trợ các hoạt động giáo dục kỹ năng sống và
giao nhiệm vụ tổ chức và báo cáo các chuyên đề về kỹ năng sống, tư vấn trực
tiếp/gián tiếp cho HS....
- Các tổ chức
đoàn thể trong nhà trường (Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh
niên cộng sản Hồ Chí Minh; Công đoàn; Hội phụ huynh HS...), phối hợp với Ban
Giám hiệu mời chuyên gia giáo dục kỹ năng sống báo cáo chuyên đề định kì; phối
hợp với GV chủ nhiệm các lớp tổ chức diễn đàn, tham quan thực tế…
- Tổng phụ trách
Đội Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh/Bí thư Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí
Minh của trường cần chủ động thành lập và xây dựng kế hoạch, thường xuyên đổi
mới nội dung, phương thức tiến hành các hoạt động ngoại khóa; các hoạt động Văn
hóa, văn nghệ - Thể dục thể thao sao cho thật sôi nổi, hấp dẫn để thu hút sự
tham gia của HS một cách đông đảo, nhiệt tình.
* Thứ năm: Phát
huy vai trò của Ban quản lý khu nội trú và công tác kiểm tra, đánh giá và thi
đua, khen thưởng kịp thời đối với hoạt động giáo dục kỹ năng sống cho HS.
Để thực hiện tốt nội dung này, cần lưu ý:
- Ban giám hiệu
nhà trường, cần xem xét tổ chức các mỗi năm học ít nhất một Hội thi cấp trường
về dạy học có tích hợp giáo dục kỹ năng sống, nhằm kích thích sự thi đua giữa
GV. Có thể kết hợp với chương trình Hội giảng truyền thống hàng năm chào mừng
ngày Nhà giáo Việt Nam 20-11. Kiểm tra thường xuyên việc tích hợp giáo dục kỹ
năng sống của GV thông qua dự giờ, kiểm tra giáo án. Đưa nội dung giáo dục kỹ
năng sống vào tiêu chí đánh giá GV cuối năm. Đồng thời nhà trường nên có hình
thức khen thưởng bằng tinh thần và vật chất cho GV có thành tích trong tổ chức
hoạt động giáo dục kỹ năng sống, có thể kết hợp với quỹ hỗ trợ của phụ huynh HS
để khen thưởng một cách phù hợp và kịp thời.
- Ban quản lý
khu nội trú, ký túc xá bên cạnh việc đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát việc
thực hiện kỹ năng hoạt động tự lập của HS nội trú. Cần tổ chức thường xuyên các
phong trào thi đua rèn luyện kỹ năng hoạt động tự lập đối với những HS đang
sinh hoạt học tập trong khu nội trú của trường. Cụ thể Ban quản lý khu nội trú,
ký túc xá của trường nội trú cần thực hiện tốt những công việc cơ bản sau:
- Tổ chức và hướng dẫn HS thảo luận và thực
hiện các yêu cầu, nội quy học tập, sinh hoạt trong khu ở nội trú;
-
Tổ chức đời sống vật chất, tinh thần,
chăm lo sức khỏe cho HS nội trú;
- Tổ chức công tác giáo dục đạo đức, pháp
luật, tư tưởng lối sống cho HS nội trú;
- Tổ chức các
hoạt động giáo dục đặc thù cho HS dân tộc
(Tạo phong trào sinh hoạt thể dục
thể thao lành mạnh trong khu nội trú; Tổ chức sinh hoạt văn hóa, văn nghệ trong
khú nội trú; khôi phục nét đẹp bản sắc văn hóa dân tộc….).
3.2.7. Xây dựng môi trường giáo dục đa văn hóa trong các trường phổ thông dân
tộc nội trú tỉnh Cà
Mau
3.2.7.1 Mục đích của giải pháp
- Nhằm giúp cho các trường PTDTNT trong tỉnh Cà Mau có được môi trường giáo
dục đa văn hóa tạo thuận lợi cho các hoạt động dạy học, giáo dục của giáo viên
và học sinh ở các trường PTDTNT trong tỉnh.
- Xây dựng môi trường giáo dục trong các trường PTDTNT thành môi trường giáo dục đa văn hóa phù hợp với đặc điểm và văn hóa dân tộc Khmer. Môi trường giáo dục mà ở đó mỗi GV và HS dân tộc cảm nhận về tinh thần và vật
chất thân thiện, hòa nhập trong tất cả các mối quan hệ (CBQL, GV, HS, cộng
đồng, môi trường xã hội, môi trường thiên nhiên).
- GV có cơ hội để
phát huy hết năng lực, tài năng của mình dạy học, giáo dục; có nhiều cơ hội để
cống hiến và thăng tiến.
3.2.7.2. Nội dung của giải pháp
+ Xu thế
quốc tế về giáo dục trong thế giới đa ngữ; đa văn hóa và sự giao thoa văn hóa
trong giáo dục;
+ Giáo viên, cán bộ quản lý, nhân viên và học sinh đều có thể sử dụng song ngữ, hay
đa ngữ trong giao tiếp với nhau, trong dạy học, giáo dục và các hoạt động tập thể;
+ Bản sắc văn hóa của các dân tộc được bảo
tồn, phát huy và phát triển thông qua việc tích hợp vào các nội dung dạy học,
giáo dục và các hoạt động tập thể trong nhà trường;
+ Bản sắc văn hóa, phong tục tập quán, văn
học nghệ thuật, âm nhạc,... là những “hành trang” mà học sinh dân tộc mang theo
đến trường.
+ Việc trang trí lớp học, khu ký túc xá học
sinh, sân trường mang đậm bản sắc văn hóa các tộc người (trang phục, dụng cụ
lao động, nhạc cụ,... dân tộc);